Độc giả cũng giống như những đứa trẻ ở chỗ các tác giả lớn có thể đóng vai trò người thấy đối với họ, nhưng điều đó không có nghĩa là họ không cần được lắng nghe. Richards đã viết một loạt chuyên luận với tiêu đề How to read a page (Cách đọc một trang sách). Song, nguyên nhân chính khiến chúng tôi không đề cập tới các phương tiện hỗ trợ bên ngoài cho tới thời điểm này vì có rất nhiều độc giả phụ thuộc vào chúng một cách mù quáng, không cần thiết.
Nó không hướng tới kết quả nào khác ngoài nó. Trong chương trước, chúng tôi đã trình bày những quy tắc đọc sách văn học giả tưởng. Đọc sơ qua nắm ý chính, dù cũng rất hữu ích cho bước đầu tiên của việc đọc phân tích, nhưng cơ bản là để chuẩn bị cho bước thứ hai: hiểu được nội dung cuốn sách bằng cách thống nhất thuật ngữ với tác giả, diễn giải các nhận định của tác giả và theo sát các lý lẽ tác giả đưa ra.
Thứ nhất là chỉ khi đã hiểu những gì đang được nói đến, chúng ta mới có thể đánh giá một tác phẩm lịch sử nào đó có vẻ không thật. Khi đọc một tác phẩm triết học, những gì chúng ta quan tâm chính là các câu hỏi triết học chứ không phải câu hỏi khoa học hay lịch sử. Các luật sư nắm rất chắc vấn đề này.
Vì độc giả dù khác nhau nhưng cuốn sách vẫn là một và hoàn toàn có thể kiểm tra tính chính xác, sự trung thực trong nhận định của bất cứ ai về cuốn sách một cách khách quan. Một từ có thể được biểu thị bằng một vài thuật ngữ và một thuật ngữ có thể được diễn đạt thông qua một số từ. Thế giới trong các tác phẩm vĩ đại xét về mặt nào đó là tốt đẹp nên chúng ta muốn được sống trong đó càng lâu, càng thường xuyên càng tốt.
Ví dụ như báo chí hiện đại không chỉ giới hạn ở việc tường thuật lại những sự kiện, những tin tức kiểu như ai, cái gì, tại sao, khi nào, ở đâu. Ngược lại, có những khuyết áo không hề có cúc để cài. Nhưng một cuốn sách thực hành có thể có nhiều thứ khác ngoài các quy tắc.
Người phương Tây có phần đúng khi nói rằng Kinh Thánh là cuốn sách có nhiều chứ không chỉ một ý nghĩa. Tác dụng của quá trình đọc ngoài này đơn giản là sự mở rộng giá trị của ngữ cảnh so với việc đọc riêng lẻ một cuốn sách. Tương tự, bạn có thể đúng khi đoán chủ đề chính của cuốn sách, nhưng bạn vẫn cần trải qua bài tập chỉ rõ cách nào và tại sao bạn nói được điều đó.
Ở khả năng thứ hai, mỗi từ có thể dùng để diễn giải nhiều thuật ngữ. Hình thức các bài viết đều giống nhau: nêu lên các câu hỏi, đưa ra các câu trả lời sai; viện dẫn những lý lẽ để ủng hộ câu trả lời sai; sau đó có một bài viết đáng tin cậy phản lại những lý lẽ đó (thường là một bài từ Kinh Thánh). Trong khi đó, phong cách viết trong hầu hết các lĩnh vực phi toán học lại thường trình bày hai hay nhiều lập luận trong một đoạn, hoặc sử dụng vài đoạn để trình bày một lập luận.
Thứ hai là khi có đôi chút hiểu biết đặc biệt về chủ đề của tác phẩm, ta có thể nghĩ sử gia đã sử dụng nhầm nguồn tài liệu của ông ta hoặc có thể bị thông tin nhầm về những sự kiện liên quan đến chủ đề. Chung không có nghĩa là phổ quát. Tương tự, vấn đề về hiểu biết thường mang tính lý thuyết nhưng vẫn có sách dạy bạn nghĩ như thế nào.
Chúng tôi không thể viết cuốn sách này nếu chúng tôi theo quan điểm trên. Nhưng cách đọc này có thể không làm thoả mãn mong muốn của họ về sự kiện và nhân vật. Theo chúng tôi, bạn nên đọc nhanh và thật tập trung sao cho tâm trí hoàn toàn đắm chìm vào tác phẩm, nghĩa là để tác phẩm hư cấu thoả sức tác động lên bạn.
Nó có thể là một cách định nghĩa về một giai đoạn suy thoái kinh tế hay suy giảm sức khoẻ tinh thần. Nhưng dù là cách nào, mỗi lập luận đều bao gồm một số mệnh đề liên quan đến nhau, theo dạng điều này xảy ra vì điều kia. Thông qua kinh nghiệm thường ngày, bạn cũng quen với các hiện tượng thay đổi như bao người khác.