- Tiếp đó, áp dụng quy tắc 3, bạn phải trình bày được: (1) Tác giả đã thể hiện nội dung cuốn sách qua mấy phần chính. Nhưng làm được việc này cũng không phải đơn giản, đòi hỏi người đọc phải chống lại sức hấp dẫn và làm chủ được chính mình. Những nhà triết học không đặt câu hỏi giống của nhà khoa học, và họ cũng không sử dụng phương pháp tương tự để trả lời.
Cách thứ hai ám chỉ việc đọc các tác phẩm lớn có sự trợ giúp của cuốn Syntopicon. (2) Bạn phải nắm được tính thống nhất của toàn bộ tác phẩm bằng cách miêu tả tính thống nhất đó trong một hoặc hai câu ngắn gọn. 500 năm trở lại đây, ta có thể thấy trường ca là dạng tác phẩm khó nhất mà con người có thể sáng tạo ra.
Khi đạt được sự cân bằng, nghĩa là đạt được sự rõ ràng trong thông tin. Hơn nữa, một thi phẩm càng giàu hàm ý càng được coi là tuyệt tác. Đọc to từng từ sẽ buộc bạn hiểu cặn kẽ hơn ý nghĩa của chúng.
Ở đây chúng tôi dùng từ cấp độ thay cho loại vì loại thì khác hẳn nhau, trong khi cấp độ lại có cấp độ cao, cấp độ thấp. Sai lầm này dù xuất phát từ nguyên nhân gì cũng cho thấy tác giả đã ngộ nhận mình có kiến thức trong khi thật sự anh ta không hề có. Chính vì vậy, người ta thường nói không gì ngoài hoạt động thực tiễn có thể giải quyết vấn đề thực tiễn và hành động chỉ có trong đời sống, không phải trong sách vở.
Điều này giải thích tại sao các tác giả thường thay thế một từ đơn lẻ bằng một cụm từ khá chi tiết khi muốn diễn đạt dễ hiểu. Sau khi nêu ra quan điểm của mình về vấn đề đó, ông trả lời đáp lại mỗi lý lẽ sai của câu trả lời sai. Khi nói một tác giả không có đủ thông tin, nghĩa là chúng ta cho rằng tác giả thiếu một lượng kiến thức liên quan mật thiết tới vấn đề mà anh ta đang cố gắng giải quyết.
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, khi văn hoá nghe nhìn dường như đang dần lấn át văn hoá đọc, khi thời gian con người dành cho việc đọc các loại sách cũng ít hơn trước và ngày càng có nhiều độc giả cảm thấy lúng túng không biết lựa chọn thế nào trước một khối lượng sách, báo khổng lồ được xuất bản hàng ngày, thì phương pháp đọc sách cũng trở nên cần thiết. Chúng tôi muốn gọi đó là những ghi chú có tính biện chứng (lý do sẽ được giải thích trong Phần 4). Nếu đúng vậy, nó sẽ có thêm một tiếng nói trong cuộc tranh luận và mất đi bản chất khách quan, độc lập của mình.
Trẻ em được dạy cách đánh vần từng chữ cái trong bảng chữ cái (phương pháp này còn được gọi là đọc sơ cấp) và kết hợp chúng thành âm tiết. Nó chứng tỏ bạn không thấy thuyết phục hay tin tưởng. Các nhà phê bình văn học đã tán thành hay phản đối cuốn sách này mà không hề nhận ra rằng những nguyên tắc chính được Aristotle áp dụng khi phân tích thơ phụ thuộc một phần vào những điều đã nêu trong một số tác phẩm khác, trong các luận thuyết về tâm lý, logic và siêu hình học của ông.
Và việc họ gặp may mắn hay bất hạnh sẽ tạo cho ta những cảm xúc (có thể là đồng tình hoặc phản đối) mạnh mẽ hơn cả các giá trị nghệ thuật mà tác phẩm mang lại. Đọc phân tích là đọc kỹ lưỡng, đọc toàn bộ hay đọc hiệu quả. Nhờ sự đồng tình đó, người đọc có thể nhìn thấu được ngôn ngữ người viết đã sử dụng để thể hiện ý tưởng.
Đó là sự khác biệt giữa biết cái gì và biết cách nào. Hai quy tắc 2 và 3 còn được dùng để phân biệt sách hay và sách dở. Thông qua những cuốn sách, độc giả đọc đồng chủ đề có thể xây dựng một lập luận để phân tích một chủ đề mà có thể không nằm trong bất kỳ cuốn sách nào họ đọc.
Đây cũng chính là vấn đề của môn toán học. Đến đây, bạn có thể trả lời được câu hỏi cơ bản thứ hai là điều gì đang được đề cập chi tiết và bằng cách nào thông qua việc áp dụng các quy tắc từ 5 đến 8. Bạn không thể hiểu toàn bộ cuốn sách nếu không biết rõ trình tự các phần.