Vấn đề với những người cầu toàn và sự bận rộn để kiểm soát người khác của họ là những phẩm chất đã khiến cho họ có hiệu quả trong công việc lại khiến cho họ phải chịu đựng khó khăn trong cuộc sống cá nhân. Từ khía cạnh không đáng ghen tị này, ta nhìn lại thiên đường thời trai trẻ khi mà sự chắc chắn có giá trị hơn điều có thể trong sự đánh giá của ta về tương lai. Đó chỉ là những mơ ước và sự khát khao và chúng có rất ít giá trị trong việc thay đổi tâm trạng của chúng ta.
Đó không phải là cuộc sống mà anh ta thường mơ ước. Ai trong số chúng ta chưa từng chịu nổi đau của nó? Những sự phải lòng khi còn nhỏ và lúc vị thành niên thường không giống cách mà những người trưởng thành tìm kiếm người bạn đời hoàn hảo của họ. Giống như những phúc lợi xã hội khác, những người được đền bù đó cảm thấy mình vô dụng và không thể chấm dứt được những cảm xúc này, làm cho cảm xúc đó tồn tại dai dẳng.
Có lẽ những kỷ niệm về «những gì đã qua» thường không mang tính xây dựng. Điều đó giống như họ đã quen với ý nghĩ về việc chờ đợi một phép lạ -ông già tuyết sẽ giúp, hay chiếc răng cổ tích sẽ nâng đỡ cuộc sống của họ. Người ta thường nói rằng câu «Muốn nhận thì hãy cho», «Gieo cái gì gặt cái đó» chỉ là những lời nói cửa miệng sáo rỗng.
Bằng cách phản đối người già và những dấu hiệu tuổi già, chúng ta đang phản ứng lại nỗi sợ mang tính tự nhiên về cái chết vốn ám ảnh con người từ bao đời. Tôi phải lựa chọn giữa một bên là sự giận dữ vì bị lừa và lòng thông cảm với nỗi sợ của cha tôi rằng nếu tôi biết, tôi sẽ không còn giữ được tình cảm của tôi đối với cha như một đứa con đẻ thực thụ. Khao khát của chúng ta là kiểm soát người khác và tin rằng chúng ta biết phải làm mọi việc thế nào và mọi người phản ứng ra sao khi họ bị ra lệnh.
Người ta tự hỏi là tình yêu vô tận và luôn tươi mới ở đâu rồi? Đây là cơ sở của hầu hết những câu chuyện mà chúng tôi đã được nghe về việc cái gì là phương tiện để đạt đến hạnh phúc. Phương tiện hàng đầu để đi đến cái đích đó chính là giáo dục.
Tiến trình lành mạnh của sự trưởng thành sẽ cho phép chúng ta nuôi dưỡng niềm tin rằng chúng ta có những phẩm chất hiếm có và đem lại cho chúng ta cảm giác vững chắc của người đáng yêu và được yêu. Mỗi cuộc đời đều có những mất mát riêng. Vấn đề là khi chúng ta nỗ lực đi trên những nguyên nhân thực sự cho chứng bệnh của mình (tuyệt vọng, rối loạn lưỡng cực, tâm thần phân liệt), chúng ta đã tạo ra những sự mô tả quá chi tiết về những mô hình ứng xử.
Những rắc rối này giúp ta giải thích rất rõ lý do tại sao chúng ta không được hoàn thiện như mình mong muốn. Trong một mặt nào đó, sự thay đổi này có vẻ là một điều tốt. Không lâu sau, Stephen Benét đã nhận xét: «Chỉ vì tiền thì thật là ảm đạm, vì tri thức thì quá ranh ma mà tuổi trẻ thì giống như một thứ phấn hoa đang rộ bay tung khắp bầu trời và làm điều đó mà không thèm hỏi tại sao ».
Chắc chắn là đúng rằng quá trình tự hiểu ra mình là ai phụ thuộc vào sự quan tâm chú ý đến tiểu sử của chúng ta. Vậy thì chúng tôi có quan hệ với nhau nhưng chúng tôi có phải có cùng một ông bố hay không thì khó biết. Chính là vì trái cấm mà họ không thể kháng cự.
Chỉ có sự hy vọng cuối cùng này mới khiến cho tôi có thể chịu đựng được cơn đau của chính mình và tiếp tục sống. Họ thấy khó thích ứng với việc làm quen và thực hiện một lối giao tiếp khác với mọi người. Chắc chắn rằng không thể có sự an ủi trong lời nói, tôi đã nhận thức ra rằng lời nói, của tôi hay là của những người khác, là tất cả những gì tôi đóng khung kinh nghiệm của chính mình, trước tiên với nỗi tuyệt vọng và cuối cùng là một niềm tin mong manh rằng cuộc sống của tôi vẫn còn ý nghĩa.
Họ tự vấn: «Phải chăng đó là những gì mà tôi mong đợi? Tôi sẽ trở thành bộ sưu tập của những lời phàn nàn bất tận về sức khoẻ và những kỷ niệm vương vấn về một thời đẹp đẽ đã qua như vậy sao? Liệu có quá khó để chấp nhận sự hữu hạn của đời người mà không phải chịu đựng sự tuyệt vọng như là một thứ kèm theo lệ thường của tuổi già được không? ». Danh sách của những nghịch lý thì vô tận: sự theo đuổi niềm vui hoá ra chỉ mang lại sự đau đớn, sự liều lĩnh ghê gớm nhất hoá ra chẳng mang lại lợi lộc gì. Và trên hết, tôi rất biết ơn khi một lần nữa có dịp nhắc lại những lời của con trai Gordon Livingston nói với cha mình khi cậu bé sáu tuổi đang hấp hối nơi giường bệnh (những phép lạ của y học đã không xảy ra mặc dù cha con cậu xứng đáng được hưởng): «Cha ơi, con rất yêu giọng nói của cha».